CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa - VLB
Tổng quan về doanh nghiệp
Lợi nhuận Quý 1 lãi 35.96 tỷ đồng, giảm 17.3% so với cùng kỳ
Hưởng lợi từ giải ngân vốn đầu tư công
VLB có lợi thế mỏ đá xây dựng với trữ lượng dồi dào, thời hạn cấp phép khai thác lâu dài
Câu chuyện doanh nghiệp
Theo BCTC Quý 1/2023 được VLB công bố, doanh thu thuần giảm 8.8% so với cùng kỳ, đạt 248.61 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế cũng giảm 17.3% so với quý 1/2022, chỉ đạt mức 35.96 tỷ đồng.
Năm 2023 Quốc hội đã thông qua kế hoạch đầu tư công năm 2023 với tổng vốn hơn 700,000 tỷ đồng, với hàng loạt dự án trọng điểm trải dài từ Bắc vào Nam. Trong đó, trọng tâm đầu tư vào dự án sân bay Long Thành và cơ sở hạ tầng đường bộ, cao tốc ở khu vực phía Nam. Vì vậy, nhu cầu tiêu thụ đá xây dựng tại khu vực này sẽ rất lớn.
Bộ Giao thông Vận tải nhận định, nhu cầu về đá xây dựng trong giai đoạn từ 2023 – 2025 sẽ cần ít nhất 21.5 triệu m3. Trong khi đó, tại phía Nam nguồn cung mỏ đá đang tương đối hạn chế do phần lớn đã hết thời hạn khai thác hoặc đang trong quá trình xin giấy phép gia hạn. Do đó, những doanh nghiệp đang sở hữu những mỏ đá có trữ lượng dồi dào cùng với giấp phép khai thác đã được gia hạn sẽ có lợi thế cạnh tranh không nhỏ.
Hoạt động sản xuất kinh doanh
CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu xây dựng Biên Hòa được niêm yết lần đầu trên sàn UPCOM vào năm 2016, với cổ đông lớn nhất hiện tại là Tổng Công ty Công nghiệp thực phẩm Đồng Nai nắm giữ 49% cổ phần.
Tính đến thời điểm hiện tại, lĩnh vực kinh doanh chính của VLB là khai thác chế biến đá xây dựng; đại lý kinh doanh các sản phẩm vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị phụ tùng xây dựng; xây dựng dân dụng và hạ tầng. Trong đó, mảng khai thác chế biến đá xây dựng chiếm đến khoảng 70% cơ cấu doanh thu của VLB. Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của VLB từ khu vực Bình Thuận đến Cà Mau, tuy nhiên thị trường trọng điểm là các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, TP. HCM và khu vực Tây Nam Bộ.
Hiện nay, VLB đang sở hữu 5 mỏ đá (Thạnh Phú 1, Thiện Tân 2, Tân Cang 1, Soklu 2, Soklu 5) với tổng trữ lượng đá nguyên khối còn lại tính đến cuối năm 2022 là khoảng 94 triệu m3 và tổng công suất khai thác cấp phép là 5.7 triệu m3/năm. Trong đó, mỏ đá Thạnh Phú có trữ lượng lớn nhất, lên tới hơn 38 triệu m3 và đồng thời có công suất khai thác/năm lớn nhất so với các mỏ đá còn lại, lên đến 1.8 triệu m3/năm. Ngoại trừ mỏ Soklu 2, Soklu 5, các mỏ đá còn lại đều có giấy phép khai thác khoảng trên 15 năm, do đó sự ổn định về nguồn cung đá xây dựng sẽ được VLB đảm bảo. Bên cạnh đó VLB cũng đang tích cực xin giấy phép gia hạn và giấy phép mở rộng khai thác cho khu mỏ Soklu.
Trong năm 2022, doanh thu của VLB đạt 1,274 tỷ đồng, tăng 35% so với 2021. Tuy nhiên LNST lại âm hơn 23 tỷ đồng, nguyên nhân chính đến từ khoản chi phí nộp bổ sung quyền khai thác khoáng sản từ năm 2014 – 2021 lên đến 270 tỷ đồng theo quyết định của UBND Tỉnh Đồng Nai và Cục Thuế tỉnh Đồng Nai.
Biên lợi nhuận gộp cải thiện +227 bps so với năm 2021, đạt 23.7% nhờ giá bán tăng thông qua hệ số tính thuế tài nguyên điều chỉnh tăng và giá nguyên liệu thường xuyên mức cao trong suốt năm 2022
Luận điểm đầu tư
Đầu tư công sẽ là động lực thúc đẩy tăng trưởng chính
Từ đầu năm 2023, Quốc hội đã thông qua kế hoạch đầu tư công với tổng số vốn lên tới hơn 700,000 tỷ đồng, tăng khoảng 25% (khoảng 140,000 tỷ đồng) so với kế hoạch năm 2022 và tăng khoảng 260,000 tỷ đồng so với kế hoạch 2021. Bên cạnh đó, kế hoạch vốn đầu tư công được giao cho Bộ Giao thông Vận tải nhiều nhất từ trước tới nay: 94,161 tỷ đồng, gấp 1.7 lần so với năm 2022 với hàng loạt dự án trọng điểm quốc gia sẽ được triển khai đồng loạt.
Năm 2023 đánh dấu các dự án thành phần của cao tốc Bắc Nam giai đoạn 2 được đưa vào triển khai với tổng mức đầu tư lên tới 146,990 tỷ đồng gồm các đoạn Hà Tĩnh – Quảng Trị (260.9 km), Quãng Ngãi – Nha Trang (352.06 km) và Cần Thơ – Cà Mau (110.9 km) dự kiến hoàn thành và đưa vào vận hành khai thác trong năm 2025 – 2026.
Cao tốc Bắc Nam giai đoạn 1 cũng đã được yêu cầu hoàn thành ngay trong năm 2023. Bên cạnh các dự án hạ tầng cao tốc, nâng cấp đường bộ, siêu dự án sân bay Long Thành với tổng vốn đầu tư cho toàn bộ dự án lên tới 16.1 tỷ USD, trong đó gói thầu hạng mục nhà ga hành khách dự kiến được đấu thầu trong năm 2023 trị giá hơn 35,000 tỷ đồng, sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp thầu xây dựng có kinh nghiệm và vị thế trên thị trường giành được các gói thầu thi công nhà ga. Đồng thời, nhu cầu tiêu thụ vật liệu xây dựng sẽ tăng mạnh, đặc biệt là đá xây dựng do địa chất khu vực đồng bằng phía nam tương đối yếu.
Tuy nhiên, tình trạng chậm giải ngân vốn đầu tư công từ những vướng mắc trong các khâu thủ tục, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, định giá nguyên vật liệu,… có khả năng dẫn đến những rủi ro ghi nhận doanh thu của các doanh nghiệp tham gia. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tỷ lệ ước giải ngân 4 tháng kế hoạch năm 2023 đạt 14.66% kế hoạch. Nếu so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thì tỷ lệ giải ngân chỉ đạt 15.65%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2022 (18,48%).
Ngoài những yếu tố đã nêu trên, một phần nguyên nhân dẫn đến tốc độ giải ngân vốn đầu tư công Quý 1 năm 2023 kém hơn so với cùng kỳ là do các dự án trọng điểm trong năm nay dự kiến bắt đầu khởi công và giải ngân từ Quý 2 – Quý 4 năm 2023.
Giai đoạn 2021 - 2022 chứng kiến nhu cầu tiêu thụ đá xây dựng chậm lại do: (1) thị trường BĐS chững lại, dẫn đến ít dự án được triển khai xây dựng hơn; (2) tiến độ giải ngân các dự án đầu tư công vẫn chưa đúng kế hoạch. Với tỷ trọng tiêu thụ đá xây dựng từ 60% – 70% hàng năm, việc chính phủ chưa thực sự đẩy mạnh công tác giải ngân vốn đầu tư công và thi công các dự án trong giai đoạn qua, cùng với việc suy giảm các dự án BĐS dân dụng xây mới đã ảnh hưởng tới KQKD của các doanh nghiệp đá xây dựng đang niêm yết.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2023 – 2025 được dự báo gia tăng trở lại nhu cầu tiêu thụ đá xây dựng khi các dự án đầu tư công trọng điểm được đưa vào triển khai như Cao tốc Bắc Nam giai đoạn 2, Sân bay Long Thành, Vành đai 3 - TP.HCM, cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng, cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột,… Theo ước tính của Bộ Giao thông Vận tải, nhu cầu về lượng đá xây dựng đến năm 2025 sẽ rơi vào khoảng 21.5 triệu m3. Trong đó, sân bay Long Thành và đường vành đai 3 – TP.HCM dự kiến sẽ sử dụng lần lượt khoảng 2.04 triệu m3 và 5.2 triệu m3 đá xây dựng.
Lợi thế cạnh tranh từ trữ lượng mỏ đá lớn
Nguồn cung đá xây dựng được nhận định sẽ thiếu hụt so với nhu cầu từ nay đến năm 2025 - 2026 bởi: (1) việc xin giấy cấp phép khai thác mỏ mới và gia hạn khai thác các mỏ hiện hữu tương đối khó khăn do Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021 – 2030 chưa được phê duyệt; (2) công tác cấp phép còn gặp phải sự phản đối từ người dân địa phương khi việc khai thác ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường xung quanh; (3) Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi 2020 yêu cầu sự kiểm soát chặt chẽ đối với các Dự án đầu tư nhóm 1 - dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao bao gồm các dự án khai thác khoáng sản với quy mô, công suất lớn. Do vậy, với những doanh nghiệp sở hữu trữ lượng đá lớn và có giấy phép khai thác dài hạn như VLB sẽ có lợi thế cạnh tranh không nhỏ trong việc gia tăng sản lượng tiêu thụ.
Theo báo cáo của công ty, VLB hiện đang sở hữu trữ lượng đá xây dựng vào khoảng 94 triệu m3 và công suất khai thác 5.7 triệu m3 (có thể gia tăng công suất lên 7 triệu m3 trong giai đoạn cao điểm) lớn nhất trong các doanh nghiệp niêm yết.
Vị trí mỏ đá thuận lợi
VLB đều sở hữu các mỏ đá nằm ở khu vực tỉnh Đồng Nai, nơi cung cấp đá xây dựng chính cho khu vực phía Đông Nam Bộ. Trong đó, cụm mỏ Tân Cang được kỳ vọng thay thế cho mỏ Tân Đông Hiệp và Núi Nhỏ (đã hết thời hạn khai thác) cung cấp lượng đá xây dựng chính cho các dự án hạ tầng khu vực xung quanh TP.HCM như cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu và đặc biệt là dự án sân bay Long Thành. Bên cạnh đó, mỏ đá Thiện Tân 2 và Thạnh Phú 1 có lợi thế nằm gần lưu vực sông Đồng Nai, thuận tiện cho việc vận chuyển bến nội thủy xuống hạ lưu ĐBSCL.
Việc có vị trí nằm gần các dự án quan trọng giúp tiết kiệm thời gian vận chuyển cũng như chi phí vận chuyển cho đơn vị xây dựng, do đó những mỏ đá như Tân Cang 1 của VLB sẽ được kỳ vọng có sản lượng tiêu thụ nổi bật hơn trong thời gian tới.
Rủi ro đầu tư
Đá xây dựng là ngành có tính cạnh tranh cao giữa các doanh nghiệp trong ngành bởi các doanh nghiệp thường khai thác trong cùng một cụm mỏ, dẫn đến giá bán không thể quá chênh lệch nhau. Ngoài ra, việc cấp phép trữ lượng và công suất khai thác cho các mỏ mới bị phụ thuộc vào quy hoạch, quy định của Chính phủ cũng như là từng địa phương. Do đó, việc Luật Bảo vệ môi trường được sửa đổi đã phân loại các dự án đầu tư có tác động xấu tới môi trường, phần nào sẽ ảnh hưởng tới quá trình cấp phép mỏ đá mới cũng như gia hạn khai thác các mỏ hiện hữu.
Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ đá xây dựng phụ thuộc rất lớn vào đầu tư công cũng như các dự án hạ tầng (chiếm 70% sản lượng tiêu thụ hàng năm, còn lại là các công trình BĐS dân dụng), do đó tăng trưởng của toàn ngành sẽ chịu sự tác động chính từ tăng trưởng của toàn ngành xây dựng nói chung.
Dự phóng kết quả kinh doanh
Chúng tôi ước tính doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế trong năm 2023 của VLB lần lượt đạt 1,280 tỷ (+0.42% YoY) và 189 tỷ (tăng mạnh so với mức -23 tỷ của năm 2022. Biên lợi nhuận gộp tăng nhẹ 50 bps lên mức 24.2% với giá bán đá xây dựng trung bình tăng 7% so với năm 2022. Sản lượng tiêu thụ giảm nhẹ 2% so với cùng kỳ do các dự án cao tốc, đầu tư công dự kiến triển khai nhiều vào giai đoạn giữa và cuối năm 2023.
Nguyễn Phi tổng hợp