CSV - Công ty Cổ phần Hóa chất Cơ bản miền Nam
Cập nhật kết quả kinh doanh năm 2022
CSV ghi nhận kết quả kinh doanh nổi bật trong năm 2022 với doanh thu thuần và lợi nhuận sau thuế lần lượt đạt 2.104 tỷ đồng (+33,5%YoY) và 406,5 tỷ đồng (+95,4%YoY) nhờ giá bán và sản lượng tiêu thụ của các sản phẩm cốt lõi tăng mạnh, nhất là mảng Xút-Clo. Biên lãi gộp của CSV tăng mạnh 5,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ, đạt 31,3% nhờ mức tăng giá bán cao hơn giá nguyên liệu đầu vào. Lũy kế cả năm 2022, CSV đã vượt 21% kế hoạch doanh thu và 103% chỉ tiêu lợi nhuận.
Điểm nhấn đầu tư
Giá Xút giảm trong 2023: BSC nhận định giá Xút giảm trong ngắn hạn do (1) Trung Quốc là quốc gia có công suất sản xuất Xút lớn nhất thế giới và sẽ tăng sản lượng xuất khẩu Xút sau khi mở cửa trở lại; và (2) Giá Xút nhập khẩu của Trung Quốc rẻ hơn giá Xút nội địa do Việt Nam phải nhập khẩu muối công nghiệp – đầu vào sản xuất Xút với mức thuế suất ngoài hạn ngạch khá cao.
Di dời nhà máy sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của CSV trong trung hạn: Việc di dời nhà máy đang chậm tiến độ so với dự kiến là do gặp vướng mắc trong một số thủ tục pháp lý, dự kiến 2024-2028 mới hoàn thành xong việc di dời nhà máy. Bên cạnh đó, BSC lo ngại việc di dời nhà máy sẽ ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của công ty khi sản lượng sản phẩm sản xuất sẽ thấp do bị gián đoạn, buộc CSV có thể phải thương mại một số sản phẩm chính để “giữ chân” các khách hàng lớn - điều này sẽ “ăn mòn” lợi nhuận gộp của công ty.
Triển vọng tích cực hơn trong dài hạn: Ngành Xút là một trong những ngành hóa chất được Chính phủ quan tâm và chú trọng hiện nay do Xút được sử dụng chủ yếu trong ba ngành sản xuất lớn là giấy, Alumin (nhôm oxit) và ngành dệt. Theo báo cáo chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất Việt Nam, nhu cầu Xút Việt Nam còn khá lớn, sản lượng Xút tiêu thụ sẽ tăng đến 925.000 tấn vào năm 2035, với CAGR ~4%/năm trong giai đoạn 2025-2035
Nhận định thị trường Xút
Giá Xút điều chỉnh giảm sau khi lập đỉnh từ tháng 9/2021
Ngày 11/9/2021, Ủy ban Phát triển và Cải cách quốc gia của Trung Quốc đã công bố kế hoạch cải thiện Chính sách kiểm soát kép về tiêu thụ năng lượng với mục đích tiết kiệm năng lượng, đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh sản lượng Xút trong quý Q4/2021.
Giá xuất khẩu Xút của Trung Quốc đã tăng vọt lên đến khoảng 600 USD/tấn từ ngưỡng 350 USD/tấn trong nửa đầu năm 2021 do công suất sản xuất Xút giảm mạnh tại tỉnh Giang Tô.
Bước sang năm 2022, bắt đầu từ tháng 4, nhu cầu sụt giảm từ ngành công nghiệp Alumina ở cả Trung Quốc và Châu Âu trong khi đó nguồn cung Xút vẫn dồi dào khiến giá Xút có xu hướng giảm sau khi lập đỉnh vào tháng 9/2021. Bên cạnh đó, giá năng lượng tăng vọt do ảnh hưởng chiến tranh giữa Nga – Ukriane cũng khiến áp lực chi phí đầu vào đối với những nhà sản xuất Xút, nhất là trong quý 4/2022. Các nhà sản xuất Xút hầu hết ghi nhận mức tăng trưởng sụt giảm so với cùng kỳ do: (1) Giá bán và sản lượng Xút sụt giảm khi nhu cầu bị thu hẹp; (2) Chi phí đầu vào (năng lượng) vẫn neo ở mức cao; và (3) Mức nền cao trong Q4/2021
Trung Quốc mở cửa ảnh hưởng tiêu cực đến giá Xút nội địa
Thiếu hụt nguồn cung nội địa: Tại Việt Nam, khả năng sản xuất nội địa chỉ đáp ứng 40- 50% nhu cầu nội địa. Sản phẩm Xút nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ (với tốc độ tăng trưởng CAGR trên 20%/năm) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nội địa. Trong khi đó, nhu cầu Xút nội địa gia tăng trong giai đoạn 2020-2030 để phục quá trình chế biến bauxit để sản xuất nhôm hydroxit và nhôm oxit (Alumin).
Trung Quốc là quốc gia có công suất sản xuất Xút lớn nhất thế giới: Năng lực sản xuất Xút toàn cầu chủ yếu tập trung ở khu vực châu Á, chiếm khoảng 62% công suất sản xuất toàn cầu, trong đó năng lực sản xuất của Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm khoảng 44% tổng công suất toàn cầu. Năm 2020 Trung Quốc đã xuất khẩu 1,2 triệu tấn xút, và Việt Nam thuốc top 10 quốc gia nhập khẩu Xút từ Trung Quốc.
Sản phẩm Xút nội địa chịu áp lực cạnh tranh về giá từ Trung Quốc do không tự chủ được nguyên liệu đầu vào (muối công nghiệp)
Nguồn cung muối công nghiệp ở Việt Nam thiếu hụt nghiêm trọng do thời tiết khí hậu thất thường nên sản lượng không ổn định, hạt muối lẫn nhiều tạp chất, không đáp ứng đủ tiêu chuẩn cho sản xuất hóa chất. Vì vậy, Việt Nam đã phải nhập khẩu muối công nghiệp từ Trung Quốc, Ấn Độ, Úc, Pakistan (chiếm khoảng 70% tổng hạn ngạch nhập khẩu muối) với mức thuế suất cao (thuế suất thông thường ~30% trong hạn ngạch và 60% với lượng nhập khẩu khâu ngoài hạn ngạch).
Nguyên liệu đầu vào – chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất kinh doanh của CSV
Chi phí nguyên vật liệu đầu vào chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu chi phí sản xuất của CSV, gần 50% tổng chi phí sản xuất năm 2022. Cụ thể, muối công nghiệp dùng để sản xuất các sản phẩm Xút - Clo; lưu huỳnh dùng để sản xuất Axit Sunfuric chiếm đến 30% giá thành sản phẩm; riêng phốt pho chiếm đến 70% giá thành sản phẩm axit phốtphoric. Đa phần các nguyên liệu đầu vào (muối công nghiệp, lưu huỳnh, than cốc,..) đều được nhập khẩu từ nước ngoài (Ấn Độ, Úc, Trung Đông, Nga, Singapore), vì vậy khi có sự biến động về giá cả và tính ổn định của nguồn cung trên thế giới đối với các loại nguyên vật liệu chính mà CSV sử dụng đều ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Chi phí dịch vụ mua ngoài chiếm 28-30% tổng chi phí sản xuất, chủ yếu là chi phí điện năng để thực hiện các phản ứng hóa học. Chi phí khấu hao tài sản cố định (TSCĐ) chiếm tỷ trọng thấp, khoảng 4-5% tổng chi phí sản xuất trong 2022, do phần lớn các dây chuyền sản xuất tại CSV được đưa vào vận hành từ lâu nên đã hết khấu hao.
Điện năng và muối công nghiệp là hai thành phần chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu chi phí nguyên nhiên liệu của doanh nghiệp do mảng Xút - Clo là lĩnh vực kinh doanh cốt lõi của CSV nên. Trong đó, điện năng và muối công nghiệp lần lượt chiếm 40% và 35% tổng chi phí nguyên nhiên liệu đầu vào. Các nguyên liệu khác để sản xuất hóa chất bao gồm quặng Apatit, lưu huỳnh, than cốc ước tính chiếm 3-5% tổng chi phí.
Điện – Chiếm tỷ trọng cao trong chi phí nguyên nhiên liệu, có lợi thế về giá điện rẻ so với các quốc gia sản xuất Xút khác
Mỗi năm CSV cần tiêu thụ lượng điện năng khoảng 180–230 triệu KWh để sản xuất các sản phẩm hóa chất, ước tính chi phí điện chiếm 40% tổng chi phí đầu vào, là chi phí lớn nhất trong sản xuất hóa chất của CSV. Hiện tại, CSV phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống lưới điện quốc gia của EVN tại cấp điện áp 22kV với giá điện bán lẻ khoảng 1.890 đồng/kWh và có tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm (CAGR) trong giai đoạn 2020-2030 từ 0,6%-1,8% (theo Quy hoạch điện 8). Mặc dù giá điện tăng, Việt Nam vẫn đang nằm trong nhóm các quốc gia có giá điện rẻ nhất thế giới, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ – các quốc gia sản xuất Xút lớn nhất thế giới.
Đây là lợi thế lớn giúp Việt Nam có được giá thành sản phẩm Xút cạnh tranh hơn so với nhập khẩu từ các nước khác. Theo ước tính của BSC, giá thành sản phẩm Xút của CSV thấp hơn từ 40-50% so với giá Xút ở Mỹ và thấp hơn 20-30% so với giá Xút ở Châu Âu.
Muối công nghiệp (chiếm 30% giá thành sản xuất)
CSV nhập khẩu hoàn toàn muối công nghiệp từ Ấn Độ với áp lực từ hạn ngạch thuế quan Mặc dù Việt Nam có nhiều tiềm năng để sản xuất muối nhưng mỗi năm vẫn phải nhập khẩu từ 400-600 nghìn tấn muối từ Trung Quốc, Ấn Độ và Úc (chiếm khoảng 70% tổng hạn ngạch nhập khẩu muối) để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Trong khi đó, muối nội địa giá trị thấp, tồn kho nhiều. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự chênh lệch về chất lượng muối công nghiệp giữa Việt Nam và các quốc gia khác do: (1) Thời tiết ở Việt Nam thất thường nên sản lượng muối thu hoạch hàng năm không ổn định; và (2) Việc sản xuất muối ở Việt Nam chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công, quy mô phân tán theo hộ dân (chiếm tới 69% diện tích), nên năng suất, chất lượng muối thấp
Về giá bán, giá muối công nghiệp tại Ấn Độ tăng nhẹ qua từng năm trong giai đoạn 2013-2022, dao động từ 650–900 đồng/kg, trong khi đó giá muối công nghiệp ở Việt Nam hiện đang ở mức cao, trung bình dao động trong mức 700–1.300 đồng/kg. Tuy nhiên, mức thuế suất nhập khẩu muối công nghiệp ở Việt Nam khá cao (mức thuế trong hạn ngạch là 30% và mức thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch là 60%), BSC ước tính giá muối công nghiệp nhập khẩu từ Ấn Độ sau khi áp thuế nhập khẩu sẽ cao hơn từ 20-50% so với muối công nghiệp ở trong nước. CSV được cấp khoảng 20.000 tấn/năm trên tổng số 60.000 tấn muối nhập khẩu từ Ấn Độ, phần còn lại doanh nghiệp phải nhập ngoài hạn ngạch. BSC ước tính chi phí sử dụng muối công nghiệp của CSV cao hơn ~15%-20% so với việc không áp dụng hạn ngạch.
Lưu huỳnh – phụ thuộc 100% vào nhập khẩu
Nguồn cung lưu huỳnh trong nước khan hiếm, chỉ đáp ứng khoảng 2% nhu cầu tiêu thụ (thông qua sản lượng từ nhà máy lọc dầu Dung Quất và nhà máy lọc dầu Nghi Sơn), vì vậy các doanh nghiệp sản xuất hóa chất nhập khẩu 100% lưu huỳnh từ Trung Quốc, Mỹ, Canada và Nga - những quốc gia sản xuất lưu huỳnh hàng đầu trên thế giới. Bên cạnh đó, lưu huỳnh còn là sản phẩm phụ của quá trình lọc dầu, diễn biến của giá lưu huỳnh khá tương đồng với diễn biến giá dầu thế giới.
CSV hiện đang nhập khẩu lưu huỳnh từ các nước như Nga và Singapore để sản xuất 2 sản phẩm chính là: (1) axit sunfuric (ứng dụng trong sản xuất đường, bột ngọt trong ngành thực phẩm, pin-ắc quy, xử lý nước thải); và (2) phèn nhôm (sử dụng để xử lý nước sinh hoạt và công nghiệp).
Sản xuất – đạt ngưỡng tối đa công suất vận hành, mức tiêu hao nguyên nhiên liệu đầu vào thấp hơn so với đối thủ cùng ngành
Việt Nam có 5 doanh nghiệp tham gia sản xuất và kinh doanh Xút, với tổng năng lực sản xuất khoảng 214.000 tấn/năm (quy đổi về xút 100%). Trong đó, chỉ có CSV, HVT và Đông Á là 3 doanh nghiệp có năng lực sản xuất Xút lớn nhất và kinh doanh Xút thương phẩm, chiếm 49% tổng sản lượng Xút cả nước. Mặc dù Vedan là doanh nghiệp có năng lực sản xuất Xút lớn nhất cả nước với 100 nghìn tấn/năm nhưng doanh nghiệp này chỉ sử dụng Xút để tiêu thụ nội bộ.
CSV sở hữu dây chuyền công nghệ sản xuất tiên tiến nhất hiện nay – hai bình điện phân màng trao đổi ion, được đồng bộ và có xuất xứ từ tập đoàn tkUCE3 (châu Âu), là DD350 và BM2.7 với tổng công suất thiết kế đạt 40.000 tấn xút/năm.
Đầu ra: Sản xuất đa dạng sản phẩm, trong dài hạn chú trọng sản xuất mảng Xút- Clo
Mảng Xút–Clo là sản phẩm chủ lực của CSV
Nhà máy hóa chất Biên Hòa đảm nhận toàn bộ hoạt động sản xuất của mảng Xút–Clo với sản phẩm chính là Xút lỏng và các sản phẩm gốc Clo như axit HCl, Clo lỏng, PAC và Javel. Doanh thu mảng Xút- Clo chiếm hơn 50% tổng doanh thu, với tốc độ tăng trưởng CAGR 6%/năm trong giai đoạn 2017-2021.
Biên lãi gộp mảng Xút – Clo ~35-40%, đóng góp 70%-75% tổng lợi nhuận gộp trong giai đoạn 2019-2021. Các sản phẩm Xút-Clo của CSV chủ yếu tiêu thụ nội địa (tập trung ở các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ) và vẫn sẽ phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc.
Hiện tại, sản phẩm của CSV khó có thể xuất khẩu sang các thị trường khác do công suất thấp, không có lợi thế cạnh tranh về công nghệ và không có sản phẩm đặc thù riêng.
CSV nỗ lực đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm gốc Clo - giải quyết tình trạng nút thắt cổ chai đối với sản phẩm Clo
Xút và clo là hai đồng sản phẩm của quá trình điện phân dung dịch muối ăn với tỷ lệ về khối lượng 1,1:1 (tương ứng theo đơn vị ECU). Sau đó, toàn bộ lượng Clo và một phần lượng Xút được đem đi chế biến sâu để sản xuất ra Natri Silicate và các sản phẩm gốc Clo như axit HCl, Clo lỏng, PAC và Javel. Chính vì vậy, Xút cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sản xuất kinh doanh các hợp chất chứa clo, nhất là EDC, VCM và PVC.
Tại Việt Nam mặc dù chi phí điện năng thấp và nhu cầu tiêu thụ Xút lớn nhưng việc mở rộng công suất Xút–Clo của các đơn vị trong nước vẫn là một trở ngại lớn khi nhu cầu sản phẩm gốc Clo vẫn còn rất hạn chế – đây là nút thắt cổ chai trong ngành sản xuất Xút – Clo. Nguyên nhân chính là do: (1) sản phẩm gốc Clo khó lưu trữ, vì vậy khi nhu cầu thị trường đối với các hóa chất clo giảm thì nhiều nhà sản xuất cũng sẽ cắt giảm sản lượng Xút; và (2) Kỹ thuật sản xuất nhựa PVC (nguồn tiêu thụ gốc Clo lớn nhất trên thế giới) tại Việt Nam vẫn chưa được cải thiện. Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp sản xuất chỉ tiêu thụ mỗi sản phẩm Xút thì buộc phải tiêu tốn chi phí khá cao để xử lý Clo dư thừa- gây độc hại với môi trường.
Mảng gốc Phốt pho – không đủ năng lực cạnh tranh với các đối thủ trong ngành
Việt Nam có 7 doanh nghiệp tham gia sản xuất và kinh doanh Phốt pho vàng, chủ yếu tập trung tại tỉnh Lào Cai. Trong đó, Công ty cổ phần Phốt Pho Việt Nam (công ty con của CSV) có năng lực sản xuất thấp nhất với công suất thiết kế khoảng 8.000 tấn/năm, chiếm thị phần 5% trong tổng sản lượng Phốt pho vàng tại Việt Nam. Công ty cổ phần Phốt Pho Việt Nam đảm nhận việc sản xuất phốt pho vàng với 85% sản lượng sẽ mang đi xuất khẩu, phần còn lại sẽ cung cấp cho Nhà máy Hóa chất Đồng Nai để sản xuất axit photphoric và các sản phẩm gốc phốt phát khác.
Mảng gốc lưu huỳnh: bị thu hẹp thị phần do mất đi khách hàng lớn
Doanh thu các sản phẩm chứa gốc Lưu huỳnh đóng góp 15% tổng doanh thu, với tốc độ tăng trưởng CAGR -6%/năm trong giai đoạn 2017-2021. Biên lãi gộp mảng này ~20-25%.
Doanh thu và sản lượng sản phẩm axit sunfuric giảm mạnh ~48%YoY trong năm 2020 do Ajinomoto – khách hàng chiếm 50% tổng lượng tiêu thu axit sunfuric - đã thay đổi công nghệ sản xuất, ngừng sử dụng axit sunfuric trong quá trình chế biến bột ngọt. BSC nhận định về dài hạn, tiêu thụ mặt hàng này có chiều hướng đi xuống do gặp phải cạnh tranh về giá sản phẩm nhập khẩu khi thuế nhập khẩu của sản phẩm này bằng 0% đối với doanh nghiệp nước ngoài được hưởng ưu đãi thuế từ các hiệp định thương mại.
Xu hướng sử dụng PAC trong xử lý nước dần theo thế Phèn nhôm
Ngành xử lý nước hiện có xu hướng chuyển đổi sang sản phẩm PAC để thay thế phèn nhôm với nhiều ưu điểm vượt trội hơn như có hiệu suất làm sạch nước tốt hơn trung bình 30-60% so với phèn nhôm và giá thành rẻ hơn. Chính vì thế, sản lượng nhôm giảm từ 7.100 tấn trong 2015 xuống 4.300 tấn trong 2021. Trong khi đó, sản lượng sản xuất sản phẩm PAC tại CSV trong giai đoạn 2015–2021 gia tăng nhanh chóng, với sản lượng năm 2021 tăng hơn 60% so với năm 2015.
Phân tích hoạt động kinh doanh của CSV
Doanh thu tăng vọt trong năm 2022 nhờ giá Xút tăng mạnh
Doanh thu của CSV trong giai đoạn 2017–2021 có xu hướng đi ngang, dao động trong ~1.400– 1.600 tỷ đồng mỗi năm. Riêng năm 2022, doanh thu của CSV tăng vọt lên 2.104 tỷ đồng (+33,5% YoY), động lực tăng trưởng đến từ mảng kinh doanh cốt lõi nhờ giá Xút và Phốt pho tăng mạnh.
CSV tập trung sản xuất Xút- Clo, gia tăng tỷ trọng, từ 42% lên 50% trong giai đoạn 2017 – 2021 nhờ việc doanh nghiệp đầu tư hai bình điện phân nhằm nâng cao năng lực sản xuất. Ngược lại, tỷ trọng mảng phốt pho và lưu huỳnh trong doanh thu của CSV có xu hướng giảm dần. Trong đó, các sản phẩm Phốt pho không có vị thế cạnh tranh về giá và chất lượng sản phẩm so với đổi thủ cùng ngành, còn kết quả kinh doanh các sản phẩm lưu huỳnh cũng sụt giảm do mất đi khách hàng lớn và thay đổi xu hướng trong ngành xử lý nước.
Biên lãi gộp phụ thuộc vào biến động theo giá hàng hóa do doanh nghiệp chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào
Biên lãi gộp của CSV tăng mạnh 5,2 điểm phần trăm so với 2021, đạt 31,3% trong năm 2022 nhờ nhu cầu sản xuất Alumina tăng thúc đẩy giá bán Xút tăng mạnh trong bối cảnh Trung Quốc cắt giảm sản lượng sản xuất Xút để bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng.
So với các đối thủ cạnh tranh: Trong giai đoạn 2017-2022, CSV hiện có biên lợi nhuận gộp cao nhất mảng hóa chất cơ bản nhờ hầu hết các dây chuyền sản xuất tại đây đã hết khấu hao, tuy nhiên vẫn đảm bảo hoạt động ổn định trong vòng từ 6–8 năm tới, giúp giảm đáng kể một phần chi phí được hạch toán vào giá vốn. Ngoài ra, dây chuyền sản xuất của CSV có định mức tiêu thụ hai nguyên nhiên liệu đầu vào chính (muối công nghiệp và điện) – chiếm hơn 60% trong cơ cấu chi phí nguyên nhiên liệu – ở mức thấp. Tuy nhiên, từ năm 2021, biên lãi gộp CSV thấp hơn DGC từ 7-15 điểm phần trăm do chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào.
Kiểm soát tốt chi phí hoạt động và chi phí lãi vay thấp, giúp “bảo vệ” được lợi nhuận ròng
Tỷ lệ chi phí hoạt động/Doanh thu thuần của CSV dao động từ 8-10%. Bên cạnh đó, chi phí lãi vay giảm mạnh 2,5 lần so với 2021. Do đó, Lợi nhuận ròng tăng 94,5%, vượt mức tăng trưởng Doanh thu thuần (33,5%).
Bảng cân đối kế toán lành mạnh
Tỷ lệ nợ vay thấp và khả năng thanh toán lành mạnh: Nợ vay của CSV là nợ ngắn hạn, đạt ~126 tỷ trong năm 2022. Tỷ lệ đòn bẩy D/E ~9% trong năm 2022, ở mức thấp so với các doanh nghiệp cùng ngành. Trong khi đó, tỷ lệ tiền mặt cao chiếm 31% tổng tài sản, đạt gần 530 tỷ đồng. Ngoài ra, BSC đánh giá khả năng thanh toán của CSV ở mức tốt với chỉ số thanh toán hiện hành chỉ ở mức 2,74 lần và chỉ số chi trả lãi vay (EBITDA/(Lãi vay+Nợ ngắn hạn)) ở mức khoảng 4,27 lần. Cả 2 chỉ số này đều có xu hướng cải thiện qua các năm.
Nguyễn Phi tổng hợp từ BVSC