Xuất hiện tín hiệu phục hồi kinh tế rõ nét hơn
Tóm tắt
- Lĩnh vực công nghiệp và xuất khẩu phục hồi rõ rệt hơn trong tháng 7/23.
- Lãi suất huy động bình quân kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại giảm xuống 40%/năm vào cuối tháng 7/2023, giảm 20 điểm cơ bản so với cuối tháng 6/2023.
- Áp lực lên tỷ giá VND gia tăng trong tháng 7 do lợi suất trái phiếu chính phủ (TPCP) Mỹ tăng và đồng NDT suy yếu.
Lĩnh vực công nghiệp và xuất khẩu chứng kiến đà phục hồi rõ rệt hơn
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của Việt Nam trong tháng 7/2023 tăng 3,9% sv tháng trước và tăng 3,7% svck.
Chỉ số IIP được cải thiện rõ rệt so với tháng trước (IIP tháng 6/2023 chỉ tăng 1,8% svck), đây là mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 10/2022 (đã điều chỉnh yếu tố mùa vụ-kỳ nghỉ lễ Tết Nguyên đán). Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tháng 7/23 cũng có sự cải thiện nhẹ. Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 30,1 tỷ USD trong tháng, giảm 2,1% svck và giảm 0,2% sv tháng trước. Điều này đã cải thiện so với mức giảm 8,6% svck trong tháng trước. Trong khi đó, chi tiêu nhập khẩu của Việt Nam tăng 2,4% sv tháng trước (-11,0% svck) lên 27 tỷ USD, đánh dấu đà phục hồi tháng thứ ba liên tiếp (theo tháng).
Dòng vốn FDI mạnh hơn nhằm đón đầu sự phục hồi của xuất khẩu
Dòng vốn FDI có dấu hiệu cải thiện khi vốn FDI đăng ký tăng 86% svck lên 2,8 tỷ USD vào tháng 7/2023. Trong đó, vốn FDI đăng ký mới tăng 85,3% svck lên 1,4 tỷ USD và vốn FDI tăng thêm tăng 190,8% svck lên 1,2 tỷ USD.
Kỳ vọng lãi suất cho vay sẽ giảm đáng kể trong những tháng tới
Lãi suất cho vay có thể tiếp tục giảm trong những tháng còn lại của năm nay do chi phí vốn của các NHTM đang giảm nhờ: (1) tác động từ việc NHNN cắt giảm lãi suất trong 6T23 và (2) NHNN ban hành Thông tư 02 cho phép gia hạn trích lập dự phòng nợ xấu. VNDr kỳ vọng lãi suất cho vay giảm thêm 100-150 điểm cơ bản cho đến cuối năm 2023 và đây sẽ là động lực chính cho sự phục hồi của tiêu dùng và đầu tư tư nhân.
Cẩn trọng với biến động tỷ giá
Áp lực lên tỷ giá hối đoái gia tăng trong tháng 7 và đầu tháng 8, khi tỷ giá US$/VND tăng lên 23,963 vào ngày 15/8/2023 (+1,4% sv đầu năm). VNDr nhận thấy một số yếu tố có thể gây thêm áp lực lên tỷ giá VND trong nửa cuối năm 2023, bao gồm (1) chênh lệch lãi suất giữa VND và USD thu hẹp do lãi suất điều hành của Fed được dự báo sẽ duy trì ở mức đỉnh cho đến cuối năm 2023, trong khi NHNN vẫn định hướng giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng, (2) sau động thái nâng trần nợ công, chính phủ Mỹ đẩy mạnh phát hành TPCP để bù đắp thâm hụt ngân sách, đẩy lãi suất TPCP Mỹ lên mức cao nhất kể từ đầu năm 2023, (3) Trung Quốc nới lỏng tiền tệ sẽ gây áp lực lên đồng NDT và VNDr nhận thấy rằng trong quá khứ VND có tương quan cao với NDT, (4) áp lực lạm phát trong nước có thể gia tăng tăng từ cuối Q3/23
Lĩnh vực công nghiệp cải thiện trong tháng 7 nhờ nhu cầu bên ngoài hồi phục và những chính sách hỗ trợ của Chính phủ
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của Việt Nam trong tháng 7/2023 tăng 3,9% sv tháng trước và tăng 3,7% svck. Chỉ số IIP được cải thiện rõ rệt so với tháng trước (IIP chỉ tăng 1,8% svck vào tháng 6/2023), đây là mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 10/2022 (đã điều chỉnh yếu tố mùa vụ-kỳ nghỉ lễ Tết Nguyên đán). Đồng thời, chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) của Việt Nam đã tăng lên mức 48,7 điểm vào tháng 7, cải thiện từ mức 46,2 điểm của tháng trước. Tuy nhiên, đây là tháng thứ 5 liên tiếp PMI của Việt Nam dưới 50 điểm (ngưỡng thu hẹp sản xuất), cho thấy đà phục hồi của lĩnh vực công nghiệp còn chậm và mong manh.
Xét về các phân ngành, một số hoạt động công nghiệp có sự cải thiện mạnh mẽ trong tháng 7 bao gồm: hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai khoáng (+49,6% sv tháng trước, +17,8% svck), sản xuất đồ uống (+5,5% sv tháng trước, +8,4% svck), sản xuất thực phẩm (+4,9% sv tháng trước, +11,4% svck) và sản xuất kim loại (+3,4% sv tháng trước, +15,4% svck). Mặt khác, một số hoạt động công nghiệp tiếp tục sụt giảm trong tháng 7 như sản xuất động cơ/rơ moóc/sơ mi rơ moóc (-11,2% sv tháng trước, -6,6% svck), sản xuất thiết bị vận tải khác (-2,2% sv tháng trước, - 1,7% svck) và sản xuất máy móc thiết bị (-1,8% sv tháng trước, -5,5% svck).
VNDr kỳ vọng sự phục hồi của lĩnh vực sản xuất sẽ tăng tốc trong những tháng tới nhờ:
- Áp lực lạm phát tại các nền kinh tế phát triển giảm bớt sẽ là yếu tố củng cố niềm tin và chi tiêu của người tiêu dùng tại các thị trường này trong những tháng cuối năm 2023. Do đó, VNDr kỳ vọng các đơn hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng trở lại trong những tháng tới, nhờ sự phục hồi của nhu cầu tiêu dùng tại các nền kinh tế phát triển.
- Cầu trong nước được kỳ vọng sẽ phục hồi mạnh mẽ hơn trong những tháng tới nhờ (1) tác động tích cực từ các chính sách kích cầu tài khóa (giảm thuế & phí, tăng lương cơ bản, ...) và (2) cho vay tiêu dùng phục hồi trong bối cảnh lãi suất giảm. Đồng thời, nhu cầu của người tiêu dùng phục hồi sẽ giúp cải thiện triển vọng kinh doanh và thúc đẩy các nhà sản xuất gia tăng sản lượng.
Lĩnh vực dịch vụ phục hồi trong tháng 7 nhờ các gói kích thích tài khóa được triển khai
Theo TCTK, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 1,1% so với tháng trước, đây là mức tăng trưởng theo tháng cao nhất trong 3 tháng qua. So với năm trước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7 tăng 7,1% svck, cải thiện từ mức tăng trưởng 6,7% svck trong tháng trước đó. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng từ đầu năm 2023 đến nay tăng 10,4% svck. Nếu loại trừ yếu tố giá, chỉ số này tăng 9,6% svck, cao hơn so với mức tăng bình quân 8,5% svck của giai đoạn 2016- 2019 (trước đại dịch COVID-19).
Xét về nhóm ngành, tất cả các nhóm ngành dịch vụ đều ghi nhận sự cải thiện trong tháng 7/2023. Trước hết, hoạt động du lịch, lữ hành vẫn tăng trưởng mạnh với doanh thu đạt 3,6 nghìn tỷ đồng (+9,0% sv tháng trước, +6,5% svck). Ngoài ra, doanh thu mảng dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 3,2% sv tháng trước lên 56,3 nghìn tỷ đồng (+5,7% svck) trong khi doanh thu bán lẻ tăng 0,5% so với tháng trước lên 399,7 nghìn tỷ đồng (+7,0% svck) trong tháng 7/23.
Du lịch vẫn là điểm sáng khi lượng khách quốc tế đến Việt Nam duy trì đà tăng tích cực trong tháng 7. Theo TCTK, Việt Nam đón khoảng 1,04 triệu lượt khách quốc tế (+6,5% sv tháng trước, gấp 2,9 lần svck). Trong 7 tháng đầu năm 2023, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 6,6 triệu lượt, gấp 6,9 lần svck và bằng 67,5% so với trước dịch. Trong đó, Hàn Quốc chiếm lượng khách du lịch lớn nhất đến Việt Nam trong tháng 7, ước tính đạt 286.126 lượt khách (+0,6% sv tháng trước), tiếp đến là Trung Quốc (158.260 lượt khách; +14,0% sv tháng trước), Đài Loan (92.589 lượt khách; +31,1% sv tháng trước), Mỹ (71.661 lượt khách; +7,3% sv tháng trước) và Nhật Bản (42.581 lượt khách; +15,0% sv tháng trước). VNDr kỳ vọng lượng khách quốc tế đến Việt Nam có thể đạt khoảng 12 triệu lượt trong năm 2023, cao hơn 50% mục tiêu năm nay của Chính phủ.
VNDr cho rằng lĩnh vực dịch vụ có thể duy trì đà phục hồi trong những tháng tới nhờ: (1) Chính phủ giảm 2% thuế GTGT và giảm 50% thuế trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước từ 1/7/2023, (2) Chính phủ tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức từ 1/7/2023 và (3) lãi suất giảm sẽ thúc đẩy tín dụng tiêu dùng.
Hoạt động thương mại cải thiện nhờ nhu cầu bên ngoài phục hồi
Đà sụt giảm của xuất khẩu đã chậm lại
Tương tự như lĩnh vực công nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu cũng ghi nhận sự cải thiện nhẹ trong tháng qua nhờ các đơn hàng bên ngoài phục hồi. Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 30,1 tỷ USD trong tháng 7, giảm 2,1% svck và giảm 0,2% sv tháng trước. Điều này đã cải thiện so với mức giảm 8,6% svck trong tháng trước. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong tháng 7/2023 chuyển biến tích cực gồm: Điện thoại các loại tăng 0,6% svck (so với mức giảm 6,4% svck của tháng 6); đồ nội thất không sản xuất từ gỗ tăng 8,3% svck (so với -8,0% svck trong tháng 6); sắt thép tăng 14,2% svck (so với -7,9% svck trong tháng 6); sợi dệt tăng 19,5% svck (so với -5,8% svck vào tháng 6); hàng điện tử và máy tính tăng 28,2% svck (so với - 3,3% svck trong tháng 6). Ở chiều ngược lại, một số mặt hàng có mức sụt giảm mạnh hơn như: xăng dầu (-44,4% svck), than đá (-28,0% svck); sản phẩm sắt thép (-19,7% svck). Trong 7T23, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đạt 195,4 tỷ USD (-10,3% svck).
VNDr kỳ vọng xuất khẩu của Việt Nam sẽ duy trì đà phục hồi trong những tháng tới nhờ (1) lượng hàng tồn kho và áp lực lạm phát giảm bớt ở các nước phát triển sẽ kích thích nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam và (2) chu kỳ thay thế điện thoại thông minh cũ bằng điện thoại mới là khoảng 25,3 tháng, tức gần 2 năm (theo nghiên cứu của China Mobile Terminal Lab), sẽ thúc đẩy nhu cầu xuất khẩu điện thoại thông minh của Việt Nam từ Q4/23 (xuất khẩu điện thoại và linh kiện chiếm 16% tổng xuất khẩu của Việt Nam năm 2022).
Nhập khẩu ghi nhận tháng thứ 3 liên tiếp phục hồi theo tháng
Hoạt động nhập khẩu có tháng thứ ba liên tiếp phục hồi so với tháng trước trong bối cảnh nhu cầu đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm trung gian mạnh hơn. Theo Tổng cục Hải quan, chi tiêu nhập khẩu của Việt Nam tăng 2,4% sv tháng trước (-11,0% svck) lên 27 tỷ USD vào tháng 7/2023. Trong đó, nhập khẩu hàng hóa trung gian (cho hoạt động sản xuất) tăng 5,2% sv tháng trước (-8,2% svck) trong khi nhập khẩu tư liệu sản xuất tăng 4,9% so với tháng trước (-12,2% svck). Ngược lại, nhập khẩu nguyên liệu thô và nhập khẩu hàng tiêu dùng lần lượt giảm 4,3% so với tháng trước (-17,7% svck) và 1,1% so với trước (-9,8% svck) trong tháng 7/2023. Tính chung 7T23, chi tiêu nhập khẩu của Việt Nam đạt 178,9 tỷ USD (-17,2% svck). Về cán cân thương mại, Việt Nam xuất siêu 16,5 tỷ USD trong 7T23, cải thiện mạnh từ mức xuất siêu 1,8 tỷ USD trong 7T22.
Nhiều dấu hiệu tích cực từ dòng vốn FDI
Dòng vốn FDI có dấu hiệu cải thiện khi vốn đăng ký tăng mạnh trong T7/2023. Theo Bộ KH&ĐT, vốn FDI đăng ký đạt 2,8 tỷ USD trong T7/2023 (+86% svck). Trong đó, vốn FDI đăng ký mới tăng mạnh 85,3% svck lên 1,4 tỷ USD trong khi vốn FDI tăng thêm tăng vọt 190,8% svck lên 1,2 tỷ USD. Đón đầu nhu cầu phục hồi ở các thị trường phát triển trong bối cảnh lạm phát hạ nhiệt và hàng tồn kho giảm, nhiều doanh nghiệp FDI đang lên kế hoạch cho các dự án mới và mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Đó là nguyên nhân chính khiến dòng vốn đăng ký cải thiện đáng kể trong tháng vừa qua. Trong khi đó, vốn FDI thực hiện giảm nhẹ 1,0% svck xuống 1,6 tỷ đô trong T7/2023.
Trong 7T23, vốn FDI thực hiện tăng 0,8% svck lên 11,6 tỷ USD, đồng thời, vốn FDI đăng ký tăng 4,5% svck lên 16,2 tỷ USD. Cụ thể, 1.627 dự án mới được cấp phép (+75,5% svck) với vốn đăng ký 7,9 tỷ USD (+38,6% svck); 736 (+27,1% svck) dự án đã cấp phép các năm trước được chấp thuận điều chỉnh vốn đầu tư (FDI tăng thêm) với tổng vốn tăng thêm là 4,2 tỷ USD (-42,5% svck); 1.852 (-10,6% svck) lượt góp vốn và mua cổ phần từ các nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 4,1 tỷ USD (+60,7% svck).
VNDr kỳ vọng Chính phủ quyết liệt hơn trong đầu tư công
Theo TCTK, vốn nhà nước thực hiện (đầu tư công) trong T7/2023 tăng 28,4% svck lên 58,5 nghìn tỷ đồng (so với +25,9% svck trong T6/2023). Trong 7T23, vốn nhà nước thực hiện tăng 22,1% svck lên 291,0 nghìn tỷ đồng, cao hơn mức tăng trưởng 12,3% svck trong 7T22. Vốn đầu tư công thực hiện trong 7T23 đạt 41% kế hoạch cả năm 2023. VNDr kỳ vọng chính phủ sẽ quyết liệt đẩy mạnh đầu tư công hơn nữa để hoàn thành ít nhất 95% kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công trong năm 2023 (Quốc hội giao kế hoạch là 711.684 tỷ đồng). Hiện VNDr nhận thấy một số yếu tố hỗ trợ để đẩy nhanh các dự án đầu tư công trong năm nay, bao gồm:
- Nợ công thấp tạo dư địa mở rộng chính sách tài khóa để hỗ trợ phục hồi kinh tế: Nhờ tăng trưởng GDP vững chắc trong giai đoạn 2016-1022 và kiểm soát chi tiêu chặt chẽ, nợ công của Việt Nam đã giảm nhanh qua các năm từ 51% vào cuối năm 2016 xuống còn 38% vào cuối năm 2022, thấp hơn nhiều so với trần nợ công của Việt Nam là 60% GDP.
- Lợi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam giảm mạnh kể từ đầu năm 2023: Tính đến ngày 15 tháng 8 năm 2023, trên thị trường thứ cấp, lợi suất TPCP kỳ hạn 5 năm và 10 năm đã giảm lần lượt 295 và 223 điểm cơ bản so với đầu năm, xuống mức 1,78% và 2,59%.
- Lạm phát trong nước đã hạ nhiệt đáng kể trong vài tháng qua: Lạm phát bình quân giảm xuống mức 2,4% svck trong Q2/23 từ mức 4,2% svck trong Q1/23. Khi áp lực lạm phát hạ nhiệt, Chính phủ có thể xem xét nới lỏng chính sách tài khóa nhiều hơn để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Vì vậy, VNDr giữ nguyên dự báo vốn nhà nước thực hiện năm 2023 tăng trưởng 25% so với số thực hiện thực tế trong năm 2022.
VNDr kỳ vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng tốc phục hồi trong những tháng cuối năm 2023
VNDr kỳ vọng GDP của Việt Nam tăng trưởng 7,1% svck (+/-0,3 điểm %) trong nửa cuối năm 2023 (so với +3,7% svck trong nửa đầu năm 2023), qua đó nâng tốc độ tăng trưởng cả năm 2023 lên 5,5% svck (+/-0,2 điểm %). VNDr kỳ vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ duy trì đà phục hồi trong năm tới và dự báo GDP tăng trưởng 6,9% svck (+/-0,3 điểm %) trong năm 2024.
Các động lực chính đến từ: (1) Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng để hỗ trợ tăng trưởng, (2) Lãi suất cho vay thấp hơn giúp kích thích tiêu dùng và đầu tư tư nhân và (3) Đơn hàng xuất khẩu nông sản và hàng hóa công nghiệp của Việt Nam có khả năng phục hồi đáng kể từ Q4/23.
Rủi ro đối với dự phóng của VNDr đến từ: (1) Lạm phát toàn cầu cao hơn dự kiến, (2) Chỉ số DXY mạnh hơn dự kiến có thể gây thêm áp lực lên tỷ giá, (3) Tăng trưởng kinh tế chậm hơn dự kiến của các đối tác thương mại lớn ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam.
VNDr kỳ vọng lãi suất huy động và lãi suất cho vay sẽ duy trì đà giảm trong những tháng cuối năm 2023
Lạm phát Mỹ hạ nhiệt, FED để ngỏ khả năng cho lần tăng lãi suất tiếp theo
Trong cuộc họp vào tháng 7, Fed đã quyết định nâng phạm vi lãi suất mục tiêu lên 5,25% - 5,5%. Đồng thời, Fed nhấn mạnh rằng quyết định tăng lãi suất điều hành trong những tháng tới sẽ phụ thuộc vào dữ liệu kinh tế tại thời điểm đó, hàm ý rằng Fed vẫn để ngỏ khả năng cho lần tăng lãi suất tiếp theo.
Tuy nhiên, dự báo thị trường phần nào tích cực hơn so với dự báo của Fed. Cụ thể, thị trường hiện kỳ vọng FED sẽ không có thêm lần tăng lãi suất điều hành nào trong năm 2023 và Fed có thể giảm lãi suất sớm nhất từ T5/2024.
Lãi suất huy động tiếp tục giảm trong T7/2023
Cụ thể, lãi suất tiền gửi bình quân kỳ hạn 12 tháng của NHTM giảm xuống 6,40%/ năm vào cuối T7/2023, giảm 20 điểm cơ bản so với cuối T6/2023 và 143 điểm cơ bản so với cuối năm 2022. Lãi suất tiền gửi bình quân kỳ hạn 3 tháng giảm xuống 4,24%, giảm 6 điểm cơ bản so với cuối tháng 6 và 143 điểm cơ bản so với cuối năm 2022. VNDr kỳ vọng lãi suất tiền gửi bình quân kỳ hạn 12 tháng sẽ giảm xuống 6,0-6,2%/năm trước cuối năm 2023, bởi các lý do sau: (1) tác động từ 4 đợt giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), (2) nhu cầu tín dụng yếu trong nửa đầu 2023 làm giảm áp lực huy động, (3) Chính phủ thúc đẩy đầu tư công và mở rộng tài khóa, từ đó bơm thêm tiền vào nền kinh tế.
VNDr kỳ vọng lãi suất cho vay sẽ giảm mạnh trong các quý tiếp theo
Cùng với việc giảm lãi suất huy động, lãi suất cho vay đã giảm 0,5-1,0 điểm % so với cuối năm 2022. VNDr kỳ vọng lãi suất cho vay có thể giảm hơn nữa trong những tháng cuối năm nay, nhờ chi phí vốn của các NHTM đang giảm nhanh do: (1) tác động từ 4 đợt giảm lãi suất điều hành của NHNN và (2) Thông tư 02 được ban hành cho phép NHTM giãn trích lập dự phòng nợ xấu. VNDr dự báo lãi suất cho vay có thể giảm thêm 100-150 điểm cơ bản trong những quý tới và đây sẽ là động lực chính cho sự phục hồi trong tiêu dùng tư nhân và đầu tư.
Áp lực lạm phát gia tăng trong các tháng tiếp theo
Theo TCTK, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2023 tăng nhẹ lên mức 2,06% svck năm trước từ mức 2,00% svck trong tháng 6. Theo tháng, chỉ số CPI tháng 7/2023 tăng 0,45% so với tháng trước và cao hơn mức tăng 0,27% của tháng 6. Đà tăng gần đây của giá lợn hơi đã kéo chỉ số CPI nhóm thực phẩm tháng 7/2023 tăng 0,79% so với tháng trước và đây là yếu tố chính làm gia tăng áp lực lên lạm phát.
VNDr nhận thấy một số yếu tố có thể gây áp lực lên lạm phát trong những tháng cuối năm 2023 như: (1) Đà tăng gần đây của giá lợn và giá gạo (2) Chênh lệch giá xăng giữa 6 tháng cuối năm 2023 và 6 tháng cuối năm 2022 sẽ thu hẹp đáng kể so với mức chênh lệch của nửa đầu năm 2023 và nửa đầu năm 2022, (3) việc Chính phủ tăng lương cơ bản cho cán bộ, công chức nhà nước từ ngày 01/07/2023 cũng sẽ làm gia tăng áp lực lên lạm phát.
Tuy nhiên, VNDr cho rằng áp lực lạm phát vẫn sẽ nằm trong tầm kiểm soát do tổng cầu trong nước còn yếu trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế thấp. VNDr giữ nguyên dự phóng lạm phát bình quân của Việt Nam năm 2023 ở mức 3,3% (+/-0,2 điểm %) (hoàn thành mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4,5% của Quốc hội giao).
Cẩn trọng với biến động tỷ giá
Áp lực tỷ giá gia tăng trong tháng 7 và đầu tháng 8, khi tỷ giá USD/VND chạm mức 23.963 tại ngày 15/08/2023 (+1,7% so với cuối tháng 6). Tính từ đầu năm 2023, tỷ giá USD/VND đã tăng khoảng 1,4%.
VNDr nhận thấy một số yếu tố có thể gây sức ép lên tỷ giá VND trong nửa cuối năm 2023, bao gồm (1) chênh lệch lãi suất giữa VND và USD tiếp tục thu hẹp do lãi suất điều hành của Fed có thể duy trì ở vùng đỉnh đến cuối năm 2023 trong khi NHNN định hướng tiếp tục hạ lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng, (2) Sau động thái nâng trần nợ công, Chính phủ Mỹ đã đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp thiếu hụt ngân sách, đẩy lãi suất TPCP Mỹ lên mức cao nhất kể từ đầu năm 2023, (3) Trung Quốc nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ gây áp lực lên đồng NDT và VNDr nhận thấy sự tương quan mạnh mẽ giữa Việt Nam đồng và đồng NDT trong quá khứ, (4) lạm phát trong nước có thể gia tăng từ cuối Q3/23. Tuy nhiên, NHNN có một số yếu tố hỗ trợ để ổn định tỷ giá, bao gồm: (1) Thặng dư thương mại duy trì mức cao, (2) FDI và kiều hối ổn định, (3) Các thỏa thuận bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài dự kiến thực hiện trong nửa cuối năm 2023 sẽ làm tăng nguồn cung ngoại tệ.
Nhìn chung, VNDr cho rằng tỷ giá có thể biến động mạnh vào cuối năm 2023, tuy nhiên, tỷ giá US$/VND được dự báo sẽ tăng không quá +2,0% so với đầu năm 2023. VNDr tin rằng mức giảm giá vừa phải của VND so với USD (<3%) sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu (tăng khả năng cạnh tranh của xuất khẩu Việt Nam). Ngoài ra, VNDr cho rằng điều này ít có khả năng khiến cho dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy mạnh ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, áp lực tỷ giá càng lớn thì dư địa để NHNN tiếp tục giảm lãi suất điều hành càng thu hẹp.